I. Các hiệp định của WTO và cam kết của Việt Nam Các tài liệu pháp lý cơ bản điều chỉnh tư cách thành viên của Việt Nam trong WTO là Nghị định thư về việc gia nhập WTO của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Nghị định thư) cùng với Phụ lục I của Nghị định thư, bao gồm Biểu nhân nhượng và cam kết về thương mại hàng hoá liên quan đến Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại 1994 (GATT 1994), Biểu cam kết của Hiệp định chung về Thương mại dịch vụ (GATS) và Văn kiện cuối cùng về các Kết quả của Vòng Uruguay về Đàm phán thương mại đa phương (các Hiệp định WTO). Ngoài ra, Báo cáo của ban công tác về việc gia nhập WTO của Việt Nam (Báo cáo của Ban công tác) gồm 528 điểm, chứa đựng hơn 70 cam kết cụ thể mà Việt Nam cam kết với các nước Thành viên WTO khác (người ta thường gọi là WTO+) như một phần của tổng thể gói cam kết WTO.
Trọn gói tài liệu pháp lý gồm các Hiệp định WTO về hàng hoá, dịch vụ và thương mại liên quan tới sở hữu trí tuệ trong các quan hệ thương mại của Việt Nam với các nước Thành viên WTO khác. Các quyền và nghĩa vụ của Việt Nam với WTO là trọn gói, nghĩa là giống như các nước thành viên WTO khác được quy định trong các Hiệp định WTO. Tuy vậy, do gia nhập muộn so với nhiều nước khác nên Việt Nam đã có thêm các quyền và nghĩa vụ bổ sung được quy định cụ thể trong Báo cáo của Ban công tác, Nghị định thư gia nhập WTO cùng với các Biểu cam kết cụ thể về thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ, thương mại liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ mà thường được gọi là các cam kết WTO+.
II. Cơ cấu , nội dung của các hiệp định WTO và cam kết của Việt Nam Tên chính thức của trọn gói các Hiệp định WTO mà Việt Nam đã cam kết tuân theo là Văn kiện cuối cùng về các Kết quả của Vòng Uruguay về Đàm phán thương mại đa phương trong đó có Hiệp định Marrakesh thành lập WTO (Hiệp định WTO). Hiệp định quốc tế này đã có hiệu lực đối với tất cả các thành viên từ ngày 01 tháng 01 năm 1995 và được kèm theo 04 phụ lục.
Phụ lục đầu tiên được chia thành 3 tiểu phụ lục quan trọng - Phụ lục 1A, quy định về thương mại hàng hoá (các Hiệp định đa biên về thương mại hàng hoá); Phụ lục 1B, quy định về thương mại dịch vụ (Hiệp định chung về Thương mại dịch vụ - GATS) và Phụ lục 1C quy định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ - Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (Hiệp định TRIPS).
Phụ lục 2 của Hiệp định WTO quy định một hệ thống các quy tắc về giải quyết tranh chấp thương mại giữa các Thành viên WTO.
Phụ lục 3 của Hiệp định WTO quy định về việc thành lập và hoạt động của Cơ chế rà soát chính sách thương mại và
Phụ lục 4 gồm bốn hiệp định được gọi là các hiệp định thương mại nhiều bên (tùy nghi) trong đó chỉ còn 02 hiệp định hiện còn hiệu lực.
Bên cạnh Hiệp định WTO, còn có một Danh mục với số lượng rất lớn các quyết định và Tuyên bố của các bộ trưởng về các khía cạnh kỹ thuật khác nhau của các hiệp định thuộc hệ thống WTO. Tất cả các thành viên WTO phải chấp nhận các quy tắc, các quyền và nghĩa vụ được quy định trong tất cả các hiệp định này của WTO trừ các hiệp định được nêu tại Phụ lục 4 (chỉ ràng buộc nước tham gia tự nguyện).
Tài liệu pháp lý chính thức về các hiệp định WTO và các tài liệu gia nhập khác của Việt Nam, bao gồm cả các biểu cam kết về thương mại hàng hoá và dịch vụ được đăng tải tại Website của WTO:
www.wto.org.
Tóm tắt quá trình Việt Nam gia nhập WTO 03/06/2015 | 00:00:00
1-1995: Việt Nam nộp đơn xin gia nhập WTO. Ban Công tác xem xét việc gia nhập của Việt Nam được thành lập với Chủ tịch là ông Eirik Glenne, Đại sứ Na Uy tại WTO (riêng từ 1998–2004, Chủ tịch là ông Seung Ho, Hàn Quốc)
8-1996: Việt Nam nộp “Bị vong lục về chính sách thương mại”
·
1996: Bắt đầu đàm phán Hiệp định Thương mại song phương với Hoa kỳ (BTA) 1998 - 2000: Tiến hành 4 phiên họp đa phương với Ban Công tác về Minh bạch hóa các chính sách thương mại vào tháng 7-1998, 12-1998, 7-1999, và 11-2000. Kết thúc 4 phiên họp, Ban công tác của WTO đã công nhận Việt Nam cơ bản kết thúc quá trình minh bạch hóa chính sách và chuyển sang giai đoạn đàm phán mở cửa thị trường.
·
7-2000: ký kết chính thức BTA với Hoa Kỳ ·
12-2001: BTA có hiệu lực 4-2002: Tiến hành phiên họp đa phương thứ 5 với Ban Công tác. Việt Nam đưa ra Bản chào đầu tiên về hàng hóa và dịch vụ. Bắt đầu tiến hành đàm phán song phương.
2002 – 2006: Đàm phán song phương với một số thành viên có yêu cầu đàm phán, với 2 mốc quan trọng:
·
10-2004: Kết thúc đàm phán song phương với EU - đối tác lớn nhất
·
5-2006: Kết thúc đàm phán song phương với Hoa Kỳ - đối tác cuối cùng trong 28 đối tác có yêu cầu đàm phán song phương.
26-10-2006: Kết thúc phiên đàm phán đa phương cuối cùng, Ban Công tác chính thức thông qua toàn bộ hồ sơ gia nhập WTO của Việt Nam. Tổng cộng đã có 14 phiên họp đa phương từ tháng 7-1998 đến tháng 10-2006.
7-11-2006: WTO triệu tập phiên họp đặc biệt của Đại Hội đồng tại Geneva để chính thức kết nạp Việt Nam vào WTO. Ngày 7/11/2006, Bộ trưởng Thương mại Trương Đình Tuyển và Tổng giám đốc Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) Pascal Lamy đã ký vào Nghị định thư gia nhập của Việt Nam kết thúc 11 năm tiến hành hàng loạt các cuộc đàm phán song phương, đa phương và tham vấn kể từ khi đệ đơn gia nhập vào năm 1995.
11-1-2007 WTO nhận được được quyết định phê chuẩn chính thức của Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam. Kể từ đây, Việt Nam trở thành thành viên đầy đủ của WTO.
Phụ lục 1a: Các hiệp định đa biên về thương mại hàng hoá 03/06/2015 | 00:00:00
Các hiệp định thuộc hệ thống WTO điều chỉnh thương mại hàng hoá của Việt Nam được gọi là các Hiệp định đa biên về Thương mại hàng hoá. Hiệp định cơ bản trong lĩnh vực thương mại hàng hoá là Hiệp định chung về thuế quan và thương mại năm 1994 mà thường được biết đến dưới tên gọi là GATT 1994. Bên cạnh GATT 1994 còn có 12 hiệp định cụ thể, giải thích và mở rộng phạm vi của các điều khoản khác nhau của GATT 1994.
(a) Hiệp định GATT 1994 Hiệp định này là bản sửa đổi không đáng kể của Hiệp định GATT nguyên gốc mà đã được 23 nước ký năm 1947 (GATT 1947). GATT 1947 gồm 38 điều. Các khái niệm cơ bản trong Hiệp định GATT 1947 cũng được tìm thấy trong nhiều điều khoản của các hiệp định WTO khác.
Quyền và nghĩa vụ thành viên WTO trong lĩnh vực thương mại hàng hóa theo GATT 1994 dựa trên sáu trụ cột cơ bản. Các trụ cột cơ bản này vốn được xác định tại các Điều I, II, III, XI, XX, và XXIII của GATT 1947. Các điều khác của GATT 1994 có các quy định bổ sung để làm rõ và tăng cường khả năng điều chỉnh quan hệ thương mại quốc tế của sáu trụ cột này.
Sáu trụ cột cơ bản đó như sau:
-
Đối xử tối huệ quốc (MFN): Điều II GATT 1994. Quyền và nghĩa vụ đối xử tối huệ quốc quy định tất cả các luật lệ, thuế xuất nhập khẩu, thuế trong nước và các yêu cầu pháp lý khác liên quan đến nhập khẩu và xuất khẩu hàng hoá phải được áp dụng theo cùng một cách thống nhất. Điều này có nghĩa là Việt Nam không thể quy định đối xử ưu đãi (thuận lợi hơn) hoặc phân biệt (kém ưu đãi hơn) đối với hàng hoá của một nước so với đối xử dành cho hàng hoá của các nước khác. Nếu Việt Nam đã quy định mức thuế quan MFN đối với xe hai bánh gắn máy là 05% thì xe hai bánh gắn máy có xuất xứ từ tất cả các nước thành viên WTO sẽ được hưởng mức thuế quan là 05%. Nếu Chính phủ Việt Nam quyết định trong tương lai giảm thuế quan đối với xe hai bánh gắn máy có xuất xứ từ một nước thành viên WTO xuống còn 03% thì xe hai bánh gắn máy nhập khẩu từ tất cả các nước thành viên khác của WTO sẽ được hưởng mức thuế quan mới là 03% mà không có ngoại lệ. Việt Nam có quyền yêu cầu chính phủ các nước thành viên phải bảo đảm để Việt Nam được hưởng đối xử MFN phù hợp với quy định của WTO.
Đối xử MFN có lẽ là trụ cột quan trọng nhất trong GATT 1994.
Khi nghiên cứu đối xử MFN cần chú ý có một số ngoại lệ nhất định đối với MFN. Ngoại lệ quan trọng nhất đó là ngoại lệ liên quan đến các khu vực thương mại tự do, ví dụ như khu vực tự do thương mại ASEAN. Trong ASEAN, các nước Thành viên phải cắt giảm các rào cản thương mại giữa các nước trong khi các hàng rào thương mại đối với các nước ngoài ASEAN vẫn được duy trì ở mức cao hơn.
Khi nghiên cứu đối xử MFN cũng cần chú ý các cam kết cụ thể của Việt Nam về MFN. Từ ngày gia nhập (11/01/2007), Việt Nam áp dụng thuế nhập khẩu trên cơ sở MFN đối với tất cả các nước và các vùng lãnh thổ hải quan mà Việt Nam có quan hệ theo cam kết với WTO và sử dụng thẩm quyền tăng thuế nhập khẩu phù hợp với các quy định của WTO và phù hợp với các cam kết WTO của Việt Nam. Các cam kết của Việt Nam về quyền kinh doanh được áp dụng đối với tất cả các thành viên WTO trên cơ sở MFN và ngay khi gia nhập Việt Nam phải ban hành và áp dụng việc giảm thuế và các ngoại lệ trên cơ sở đảm bảo đối xử MFN đối với hàng hoá nhập khẩu.
-
Các ràng buộc thuế quan: Điều II GATT 1994 quy định các mức cố định tối đa của thuế nhập khẩu được áp dụng đối với các sản phẩm nhập khẩu từ các thành viên WTO khác. Đồng thời, “các thuế và khoản phụ thu khác” mà hải quan Việt Nam áp thêm ngoài thuế nhập khẩu phải được ghi nhận. Việt Nam đã cam kết về mức thuế nhập khẩu “ràng buộc” tại Biểu nhân nhượng và cam kết về hàng hoá . Bất kỳ một hành động nào của Chính phủ Việt Nam liên quan đến việc tăng mức thuế suất thuế nhập khẩu ràng buộc này thường sẽ làm xuất hiện yêu cầu bồi thường thương mại từ các thành viên WTO bị ảnh hưởng để bù đắp cho những tác động thương mại bất lợi đối với họ do việc tăng thuế nhập khẩu của Việt Nam. Việt Nam cũng được hưởng các quyền tương tự liên quan đến mức thuế suất thuế nhập khẩu ràng buộc của các thành viên WTO áp dụng đối với các sản phẩm của Việt Nam nhập khẩu vào các nước đó.
Khi nghiên cứu đối xử MFN cũng cần chú ý các cam kết cụ thể của Việt Nam liên quan đến Điều II GATT 1994. Việt Nam phải đảm bảo rằng bất kỳ khoản thuế nhập khẩu hay khoản phụ thu nhập khẩu khác áp dụng đối với hàng nhập khẩu, ngoài các thuế nhập khẩu thông thường và các khoản phí và lệ phí để trả cho các dịch vụ được cung cấp, phải phù hợp với các quy định của WTO kể từ ngày gia nhập (11/01/2007). Hơn thế nữa, Việt Nam cam kết ràng buộc thuế nhập khẩu và phụ thu nhập khẩu ở mức bằng không trong Biểu nhân nhượng và cam kết về hàng hoá theo Điều II.1(b) của GATT 1994.
Tuy nhiên, Việt Nam bảo lưu quyền được áp dụng thuế tuyệt đối hoặc thuế hỗn hợp đối với một số mặt hàng nhất định trong tương lai để đối phó với tình trạng gian lận trong khai báo hải quan và sẽ cung cấp một danh mục sản phẩm nhạy cảm và các dòng thuế quan có thể được chuyển đổi để Ban Công tác rà soát. Việt Nam phải bảo đảm rằng bất kỳ một mức thuế nhập khẩu nào chuyển đổi sang thuế tuyệt đối hoặc thuế hỗn hợp sẽ không vượt quá mức thuế ràng buộc của Việt Nam áp đối với loại hàng hoá liên quan. Tuy nhiên, Việt Nam sẽ nỗ lực hết sức để hạn chế tối đa việc sử dụng Điều XXVIII của GATT 1994.
-
Đối xử quốc gia (NT) về thuế và các quy tắc trong nước: Điều III của GATT 1994 là trụ cột quan trọng thứ ba trong các Hiệp định WTO - “đối xử quốc gia”. Đối xử quốc gia được áp dụng sau khi hàng hoá đã qua biên giới nước nhập khẩu và đi vào thị trường nội địa nước này. Về cơ bản, đối xử quốc gia có nghĩa là nước nhập khẩu không thể sử dụng các biện pháp thuế hoặc quy định trong nước để phân biệt đối xử giữa hàng hoá trong nước và hàng hoá nhập khẩu. Nói một cách khác, hàng hoá nhập khẩu phải được đối xử không kém thuận lợi hơn so với hàng hoá tương tự được sản xuất trong nước liên quan đến các biện pháp thuế hoặc quy định của Việt Nam áp dụng đối với hàng hoá đó.
Khi nghiên cứu đối xử NT cũng cần chú ý các cam kết cụ thể của Việt Nam liên quan đến Điều III của GATT 1994. Việt Nam đã đưa ra nhiều cam kết cụ thể liên quan đến Điều III của GATT 1994 trong Báo cáo của Ban công tác. Các cam kết của Việt Nam không ảnh hưởng tới các quyền của Việt Nam trong hoạt động mua sắm Chính phủ (được quy định tại Điều III.8(a) của GATT 1994). Tuy vậy cần chú ý, tất cả các luật, văn bản dưới luật và biện pháp liên quan tới mua bán hàng hóa và dịch vụ của các doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp do Nhà nước kiểm soát hoặc doanh nghiệp được hưởng đặc quyền hay độc quyền mà việc mua bán này nhằm để bán hàng với tính chất thương mại, sản xuất hàng hóa hoặc cung cấp dịch vụ trên cơ sở thương mại, hoặc không nhằm mục đích phục vụ Chính phủ thực thi công quyền, sẽ không được coi là những luật, văn bản dưới luật và biện pháp liên quan tới mua sắm Chính phủ. Do đó, các giao dịch mua bán này sẽ phải chịu sự điều chỉnh của các quy định tại Điều II, XVI, XVII của GATS và Điều III của GATT 1994. Kể từ ngày gia nhập WTO, Việt Nam áp dụng các biện pháp quản lý giá phù hợp với quy định của WTO, có tính đến lợi ích của các nước xuất khẩu là thành viên của WTO như quy định tại Điều III.9 của GATT 1994, và Điều VIII của GATS và phải đăng công khai danh mục các hàng hóa và dịch vụ chịu sự kiểm soát giá của Nhà nước và bất kỳ thay đổi nào trong danh mục này trên Công báo hoặc các phương tiện thông tin đại chúng dễ tiếp cận. Việt Nam cam kết chính sách giá của Việt Nam sẽ được áp dụng phù hợp với quy định của Điều III.4 và XI.1 của GATT 1994 và Điều 4 của Hiệp định Nông nghiệp.
Việt Nam có nghĩa vụ đảm bảo các luật và các văn bản dưới luật liên quan tới quyền kinh doanh hàng hóa và tất cả các loại phí, lệ phí hoặc thuế áp dụng đối với quyền này sẽ phù hợp với các nghĩa vụ của Việt Nam trong WTO, bao gồm các Điều VIII.1(a), XI.1 và III.2 và 4 của GATT 1994 và các cam kết của Việt Nam trong Biểu Cam kết dịch vụ. Kể từ ngày gia nhập, tất cả các công ty và cá nhân (bao gồm các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài) được phép xuất khẩu hoặc nhập khẩu các mặt hàng ngoài những mặt hàng liệt kê ở bảng 8(a) – (c) với tư cách là nhà nhập khẩu đứng tên, chỉ có nghĩa vụ đăng ký hoạt động kinh doanh này với các cơ quan hữu quan của Việt Nam. Doanh nghiệp và cá nhân nước ngoài không có hiện diện thương mại ở Việt Nam vẫn có thể có quyền kinh doanh tại Việt Nam mà không bị yêu cầu phải có hoạt động đầu tư ở Việt Nam. Các nhà nhập khẩu như vậy được phép bán hoặc cung cấp các sản phẩm nhập khẩu cho các cá nhân hoặc công ty có quyền phân phối sản phẩm đó ở Việt Nam nhưng không được gây phương hại đến Biểu Cam kết dịch vụ của Việt Nam. Tuy nhiên, việc tuân thủ các nghĩa vụ về quyền kinh doanh của Việt Nam trong mọi trường hợp không tự động đem lại cho nhà nhập khẩu quyền được phân phối hàng hóa tại Việt Nam. Những quyền này được áp dụng đối với hoạt động xuất nhập khẩu các sản phẩm nêu ở Bảng 8 (a) và 8(b) theo lộ trình.
Kể từ ngày gia nhập, Việt Nam bảo đảm các luật, các văn bản dưới luật và các biện pháp khác liên quan tớicác khoản thuế và phí nội địa đánh vào hàng nhập khẩu hoàn toàn tuân thủ với các nghĩa vụ của mình với WTO, đặc biệt là Điều III của GATT 1994.
Trong vòng 03 năm kể từ ngày gia nhập, Việt Nam phải áp dụng thuế tiêu thụ đặc biệt và các loại thuế trong nước khác đối với đồ uống có cồn theo đúng Hiệp định WTO, trong đó có các Điều I và III của GATT 1994 và tất cả các loại rượu có nồng độ cồn từ 20% trở lên được áp dụng theo một mức thuế tuyệt đối đánh trên 01 lít cồn nguyên chất hoặc một mức thuế phần trăm. Áp dụng một mức thuế phầm trăm thống nhất với tất cả các sản phẩm bia bất kể sản phẩm bia đó được đóng gói ở dạng nào.
- Các hàng rào thương mại phi thuế quan: Loại bỏ các hạn chế định lượng:Điều XI của GATT 1994. Điều XI của GATT 1994 là trụ cột quan trọng thứ tư trong GATT 1994. Một quy tắc chung là các hạn chế thương mại không được áp đặt dưới hình thức hạn ngạch hoặc các hạn chế số lượng đối với hàng nhập khẩu, trừ khi đáp ứng một trong những ngoại lệ cụ thể được quy định ở các Điều XI, XX hoặc XXI của GATT 1994 . Điều này có nghĩa là trên thực tế Việt Nam phải loại bỏ các hạn chế xuất nhập khẩu, các hạn ngạch xuất nhập khẩu, các yêu cầu cấp phép có hệ quả hạn chế số lượng mà các công ty có thể nhập khẩu hoặc xuất khẩu và bất kỳ sự kiểm soát nào khác có tác động đến việc hạn chế hàng nhập khẩu hoặc xuất khẩu. Việt Nam cũng có quyền yêu cầu các nước thành viên bảo đảm cho Việt Nam được hưởng các quy định đó của WTO. Thông thường, các hạn chế thương mại thông thường cần được thực hiện dưới hình thức thuế xuất nhập khẩu, thuế trong nước hoặc các khoản phụ thu đối với hàng nhập khẩu và hàng xuất khẩu được áp phù hợp với Biểu Cam kết của các nước Thành viên WTO. Cam kết này thể hiện rõ qua ví dụ sau: Việt Nam không thể ấn định tổng số xe máy được nhập khẩu từ Trung quốc là 5000 xe trong một năm trừ khi Việt Nam có thể chứng minh được rằng hạn chế này dựa trên cơ sở của một trong những ngoại lệ để có thể áp dụng hạn chế này được quy định tại Điều XX của GATT 1994. Tương tự, Chính phủ Việt Nam không thể hạn chế số lượng tôm mà Việt Nam xuất khẩu sang Nhật Bản là 100.000 tấn một năm chỉ đơn giản vì Việt Nam muốn dự trữ lượng tôm còn lại cho thị trường Hoa Kỳ.
Khi nghiên cứu các hàng rào thương mại phi thuế quan cũng cần chú ý các cam kết cụ thể của Việt Nam liên quan đến Điều XI của GATT 1994. Việt Nam có nghĩa vụ thiết lập một cơ chế minh bạch và không phân biệt đối xử cho việc nhập khẩu, phân phối, và sử dụng xe máy phân khối lớn của các cá nhân và các công ty đáp ứng tiêu chuẩn thích hợp từ ngày 31/5/2007. Những nhà phân phối xe phân khối lớn chỉ được phép bán xe máy loại này cho những người mua có giấy phép lái xe có hiệu lực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Việc phê duyệt nhập khẩu xe công suất lớn phải được tiến hành theo cách thức cấp phép tự động phù hợp với các quy định của WTO như GATT 1994 và Hiệp định về các thủ tục cấp phép nhập khẩu mà không hạn chế về kích thước động cơ, dựa trên các tiêu chí được đăng công khai và không mang tính phân biệt cũng như không bị các hạn chế chung về số lượng. Những nhà phân phối có thể nhập khẩu xe phân khối lớn để trưng bày và phục vụ các chương trình đào tạo lái xe. Việt Nam phải bãi bỏ việc cấm nhập khẩu đối với xe đã qua sử dụng và thay thế việc cấm này bằng thuế nhập khẩu tăng lên đối với xe đã qua sử dụng vào thời điểm gia nhập. Thêm vào đó, Việt Nam phải ban hành một hệ thống tiêu chuẩn kỹ thuật, môi trường và an toàn sức khoẻ con người đối với phương tiện giao thông vận tải phù hợp với nguyên tắc của WTO. Việt Nam cũng cam kết chỉ áp dụng các biện pháp kỹ thuật đối với xe ôtô cũ phù hợp với Hiệp định các hàng rào kỹ thuật trong thương mại (Hiệp định TBT).
Kể từ ngày gia nhập (11/01/2007), Việt Nam phải loại bỏ, không ban hành mới, không ban hành lại hoặc áp dụng các hạn chế đối với hàng nhập khẩu, hoặc các biện pháp phi thuế quan khác như hạn ngạch, cấm, cho phép, các yêu cầu phê duyệt trước, các yêu cầu cấp phép và các hạn chế khác có tác động tương tự không thể lý giải được theo các quy định của Hiệp định WTO. Việt Nam cũng phải chuyển đổi cơ chế cấp phép tuỳ tiện áp dụng cho đường ăn thành cơ chế hạn ngạch thuế quan (TRQ) khi gia nhập WTO. Kể từ ngày gia nhập, thẩm quyền của Chính phủ trong việc đình chỉ xuất nhập khẩu hoặc áp dụng các yêu cầu cấp phép có thể được sử dụng để đình chỉ, cấm hoặc thông qua đó hạn chế định lượng đối với thương mại, bao gồm những biện pháp được liệt kê trong bảng 12, 13(a-b) và 14 phải được áp dụng phù hợp với các quy định của Hiệp định WTO.
Việt Nam áp dụng thuế xuất khẩu, phí và lệ phí xuất khẩu cũng như thuế nội địa đối với hoặc liên quan tới xuất khẩu phù hợp với GATT 1994. Về thuế xuất khẩu đối với phế liệu kim loại đen và kim loại màu, Việt Nam phải cắt giảm thuế xuất nhập khẩu phù hợp với Bảng 17 của Báo cáo của Ban Công tác. Việt Nam cam kết áp dụng các biện pháp quản lý và hạn chế xuất khẩu còn lại theo cách thức phù hợp với các quy định của WTO.
- Ngoại lệ chung: Điều XX GATT 1994.
Điều XX là một điều khoản quan trọng trong GATT 1994 vì điều này quy định một danh mục các ngoại lệ pháp lý mà chính phủ các thành viên WTO có thể viện dẫn nhằm lý giải cho các biện pháp mà có thể bị coi là vi phạm các quy tắc của Hiệp định GATT 1994. Đã có rất nhiều các vụ việc giải quyết tranh chấp liên quan đến việc giải thích phạm vi của các ngoại lệ được quy định ở Điều XX dựa trên việc phân tích các quyết định và vụ việc ở cấp Ban hội thẩm liên quan đến Ngoại lệ chung. Một điều rất rõ ràng là những ngoại lệ này được các Ban hội thẩm giải quyết tranh chấp của WTO giải thích rất hẹp và chặt chẽ, các ngoại lệ này không thể được sử dụng rộng rãi để biện minh cho việc không tuân thủ các quy định của GATT 1994.
Trong số các ngoại lệ cho phép được quyền quy định ở điều này có các biện pháp được thực hiện để bảo vệ cuộc sống và sức khoẻ của con người, động thực vật, đạo đức xã hội, di tích lịch sử và di sản quốc gia và để bảo vệ việc phân phối trong nước các sản phẩm khan hiếm. Bất kỳ chính phủ nào viện dẫn một trong các ngoại lệ đều không được sử dụng ngoại lệ theo cách thức tạo ra sự phân biệt đối xử “tuỳ tiện hay không thể lý giải được” giữa hàng hoá của các nước khác nhau, hay tạo ra một “sự hạn chế trá hình đối với thương mại quốc tế”.
Khi nghiên cứu các ngoại lệ được quy định ở Điều XX của GATT 1994 cần chú ý các cam kết cụ thể của Việt Nam liên quan đến điều này của Hiệp định. Việt Nam đã bị đặt các câu hỏi liên quan đến một số hạn chế xuất khẩu của hàng hoá Việt Nam mà Việt Nam duy trì. Các hạn chế nhất định đối với việc xuất khẩu khoáng sản cũng như đối với gạo được phép duy trì từ ngày 11/01/2007, tất cả các hạn chế xuất khẩu khác sẽ phải được áp dụng hoàn toàn phù hợp với các Điều XX và XXI của GATT 1994.
- Giải quyết tranh chấp: điều XXIII và “Thoả thuận” WTO về thủ tục giải quyết tranh chấp Các quy định giải quyết tranh chấp chung của Điều XXIII đã được mở rộng và cụ thể hoá ở Phụ lục 2 Thoả thuận về các quy tắc và thủ tục điều chỉnh việc giải quyết tranh chấp (DSU). DSU quy định một loạt quy tắc điều chỉnh việc giải quyết tranh chấp thương mại giữa các thành viên WTO. Thủ tục bắt đầu bằng việc tham vấn giữa các bên tranh chấp liên quan đến biện pháp áp dụng. Nếu việc tham vấn không thành công, DSU quy định cho phép các bên tranh chấp áp dụng các quy tắc chi tiết để khởi kiện theo thủ tục tố tụng trước cơ quan tài phán đặc biệt của WTO được gọi là Cơ quan giải quyết Tranh chấp (DSB).
Giải quyết các tranh chấp thương mại quốc tế giữa các thành viên WTO là trách nhiệm của DSB, gồm tất các thành viên WTO. Chỉ DSB mới có thẩm quyền thành lập “các ban hội thẩm”- Panels gồm các chuyên gia để xem xét vụ việc và thông qua hoặc bác các kết luận của Panels hoặc các kết quả của cơ quan phúc thẩm (AB). DSB có trách nhiệm giám sát việc thực thi các quyết định và khuyến nghị và có quyền cho phép việc trả đũa khi một thành viên WTO không tuân thủ quyết định của DSB.
Quy trình giải quyết tranh chấp tại WTO không quá phức tạp. Giai đoạn đầu tiên là tham vấn. Thời gian để các bên tham vấn nhau không quá 60 ngày. Theo DSU, trước khi thực hiện các bước tố tụng tại các cơ quan giải quyết tranh chấp, các bên tranh chấp phải tham vấn với nhau để xem liệu họ có thể tự giải quyết được bất đồng hay không. Nếu thất bại, họ có thể đề nghị Tổng thư ký WTO làm môi giới, trung gian, hoà giải hoặc cố gắng để đạt được một giải pháp dàn xếp vụ tranh chấp theo các cách khác. Nếu việc tham vấn hoặc môi giới, trung gian, hoà giải hoặc cố gắng để đạt được một giải pháp dàn xếp vụ tranh chấp theo các cách khác bị thất bại, thành viên WTO là nguyên đơn có quyền yêu cầu thành lập Panel để giải quyết tranh chấp. thành viên WTO là bị đơn có thể được quyền ngăn cảm một lần việc thành lập Panel tại Đại hội đồng WTO, nhưng khi DSB họp lần thứ hai thì không thể ngăn cản việc thành lập Panel này (trừ khi có một quan điểm thống nhất của tất cả các thành viên WTO (nghĩa là đồng thuận bác bỏ việc thành lập Panel).
Về một số điểm nào đó thì Panel của WTO có vẽ gần giống với toà án hay cơ quan tài phán trong nước. Tuy nhiên, Panel lại không giống như một toà án hay cơ quan tài phán trong nước thông thường vì các thành viên Panels thường được lựa chọn qua việc tham vấn với các nước trong tranh chấp. Chỉ khi hai bên không thể thống nhất thì Tổng giám đốc WTO mới chỉ định thành viên Panel. Các Panels thường gồm ba, đôi khi là năm chuyên gia từ các nước khác nhau, được lựa chọn từ danh sách cố định các ứng cử viên có trình độ đáp ứng yêu cầu công việc của WTO, hoặc từ các nguồn khác. Họ làm việc với tư cách cá nhân và không chịu sự chỉ đạo từ bất kỳ một chính phủ nào. Tuy vậy, các thành viên Panel là người xem xét các chứng cứ và quyết định về bản chất của vụ việc tương tự như các thẩm phán tuân thủ quy trình tố tụng của các tòa án trong nước. Các Panels giúp DSB đưa ra các quyết định và khuyến nghị dưới dạng các Báo cáo của Panel. Các Báo cáo của Panel thông thường được chuyển cho các bên tranh chấp xem xét để bình luận trong vòng sáu tháng, thời hạn này cũng có thể được kéo dài hơn. Trong các vụ việc khẩn cấp, bao gồm các vụ tranh chấp có liên quan đến hàng hoá dễ hỏng, thời hạn đó có thể được rút ngắn xuống 03 tháng. Các bên tranh chấp có thể không đồng ý với các kết luận của Panels, và do vậy các bên tranh chấp có quyền kháng cáo lên AB để xem xét theo thủ tục phúc thẩm. Các kháng cáo phải dựa trên các vấn đề pháp lý chứ
không phải các vấn đề về tình tiết. AB không xem xét lại chứng cứ hiện có hoặc xem xét các vấn đề mới mà ở quá trình tố tụng trước đã không được nêu ra đối với DSB.
Mỗi vụ việc kháng cáo sẽ được xem xét bởi ba thành viên của AB do DSB thành lập và phản ánh rộng rãi cơ cấu thành viên trong WTO. AB có thể giữ nguyên, sửa đổi hoặc đảo ngược các quyết định và khuyến nghị của Panel. Thông thường việc giải quyết ở cấp phúc thẩm không kéo dài quá 60 ngày, và tối đa là đến 90 ngày. DSB phải thông qua hoặc từ chối không thông qua báo cáo phúc thẩm trong vòng 30 ngày. Việc từ chối không thông qua Báo cáo của AB chỉ có thể được thực hiện bằng biểu quyết đồng thuận của toàn bộ thành viên WTO.
(b) Các hiệp định cụ thể trong hệ thống các hiệp định đa biên về thương mại hàng hoá Như đã nêu trên, ngoài GATT 1994, hệ thống các hiệp định đa biên trong lĩnh vực thương mại hàng hóa còn có 12 hiệp định chuyên ngành được xây dựng dựa trên các khái niệm và nguyên tắc trong GATT 1994. Các hiệp định này quy định chi tiết hơn về các vấn đề cụ thể trong GATT 1994, mở rộng và giải thích các quy tắc và nghĩa vụ trong GATT 1994.
- Hiệp định về nông nghiệp.
Hiệp định về nông nghiệp của WTO là hiệp định phức tạp nhất trong số các hiệp định đa biên của WTO do tính nhạy cảm cao trong thực tiễn các nước và nhu cầu cần thiết phải xây dựng bộ quy định thống nhất điều chỉnh lĩnh vực nông nghiệp ở rất nhiều nước khác nhau trên phạm vi toàn thế giới. Trước khi các Hiệp định WTO có hiệu lực vào năm 1995, lĩnh vực nông nghiệp chủ yếu vẫn nằm ngoài phạm vi điều chỉnh của các quy tắc thương mại quốc tế. Các nước điều chỉnh các vấn đề nông nghiệp trong nước của họ theo cách họ cho là thích hợp. Điều này đã dẫn đến các tranh chấp thương mại liên miên giữa các nước nhập khẩu và xuất khẩu nông sản. Một số vụ tranh chấp khốc liệt nhất đã xảy ra giữa các nước của Liên minh Châu Âu và Hoa kỳ, mà các vụ “chiến tranh về chuối” là tiêu biểu.
Mục tiêu tổng thể của Hiệp định về nông nghiệp là quy định một khuôn khổ cho việc cải cách, trong thời gian dài, về thương mại nông sản và chính sách nông nghiệp trong nước của các thành viên WTO.
Hiệp định về nông nghiệp quy định các cam kết cho các thành viên WTO, kể cả Việt Nam, trong ba lĩnh vực: tiến cận thị trường, hỗ trợ nông nghiệp trong nước và trợ cấp xuất khẩu đối với hàng nông sản xuất khẩu.
+
Về tiếp cận thị trường. Thuật ngữ “tiếp cận thị trường” được dùng trong Hiệp định này để chỉ khả năng của các sản phẩm nông nghiệp nước ngoài có thể thâm nhập vào thị trường nội địa của các nước nhập khẩu nông sản. Trong lĩnh vực này, về mặt lịch sử, hầu hế các nước đều duy trì nhiều loại rào cản khác nhau, nhất là các rào cản nhằm hạn chế số lượng các sản phẩm nông nghiệp nước ngoài được tiếp cận đầy đủ tới người tiêu dùng trong nước nhập khẩu. Sau nhiều vòng đàm phán, các thành viên WTO đã nhất trí chuyển tất cả các hạn chế về số lượng đối với việc nhập khẩu hàng nông sản thành thuế quan với các công thức toán học phức tạp. Các thuế quan, đã được tính để cắt giảm với một mức trung bình là 36% đối với các nước phát triển trong vòng 06 năm và với tổng là 24% đối với các nước đang phát triển trong vòng 10 năm. Trong một số trường hợp, các khối lượng nhập khẩu tối thiểu được áp đặt cho một số nước mà trong lịch sử đã không hề nhập khẩu sản phẩm nước ngoài do các hạn chế trong nước đối với việc nhập khẩu.
+
Về hỗ trợ trong nước. Một lĩnh vực thứ hai của thương mại nông nghiệp dược quan tâm lớn là việc hỗ trợ của chính phủ các nước đối với các nhà sản xuất nông nghiệp nước mình trong hoạt động thương mại quốc tế. Vấn đề này đặc biệt nghiêm trọng trong trường hợp của Liên minh Châu Âu và Hoa kỳ nơi mà các chính phủ các nước này, về mặt lịch sử, đã cung cấp các khoản trợ cấp tài chính rất lớn cho nông dân trong nước mình. Trong nhiều trường hợp, các trợ cấp đã dẫn đến việc khủng hoảng thừa các hàng nông sản. Đến lượt các hàng nông này này lại được chính phủ các nước mua và thường được bán ra các thị trường quốc tế với giá rẻ hơn giá thực tế của sản phẩm đó tại thị trường nội địa. Theo Hiệp định về nông nghiệp, tất cả các thành viên WTO phải tính tổng giá trị trợ cấp mà chính phủ của họ dành cho các nhà sản xuất nông nghiệp (“Tổng lượng hỗ trợ tính gộp” hay “AMS”). Sau khi đã xác định được AMS thì các thành viên WTO sẽ phải cam kết cắt giảm bắt buộc ở mức độ nhất định.
Các biện pháp trợ cấp trong nước không tác động đối với thương mại quốc tế (được gọi là trợ cấp “hộp xanh”) được loại trừ khỏi nghĩa vụ phải cắt giảm. Các chính sách liên quan đến hộp xanh bao gồm hỗ trợ của chính phủ đối với nghiên cứu nông nghiệp, kiểm soát bệnh dịch, hạ tầng nông nghiệp và an ninh lương thực cũng như các chi trả cho các nhà sản xuất nông nghiệp không liên quan đến các mức độ sản xuất của họ.
+
Về trợ cấp xuất khẩu. Theo Hiệp định, trợ cấp xuất khẩu trong giai đoạn đầu chưa bị cấm ngay. Các nước phát triển bị yêu cầu phải cắt giảm 36% các trợ cấp của họ đối với việc xuất khẩu nông nghiệp và 21% số lượng hàng xuất khẩu được trợ cấp trong vòng 06 năm. Các bước đang phát triển bị yêu cầu thực hiện nghĩa vụ thấp hơn trong lĩnh vực này. Mức độ cắt giảm của họ chỉ bằng hai phần ba so với mức độ cắt giảm đặt ra đối với các nước phát triển.
Khi nghiên cứu các quy định này của Hiệp định nông nghiệp, cần chú ý đến thời điểm Việt Nam gia nhập WTO và các cam kết cụ thể của Việt Nam với WTO liên quan đến Hiệp định nông nghiệp. Vào thời điểm Việt Nam gia nhập WTO thì các quy định cho phép trợ cấp xuất khẩu đối với nông sản không còn hiệu lực. Các cam kết cụ thể của Việt Nam liên quan đến việc xuất khẩu nông sản do vậy phải ở mức bằng không trong Biểu cam kết Hàng hoá. Điều đó có nghĩa Việt Nam có nghĩa vụ không duy trì hay áp dụng bất kỳ một trợ cấp xuất khẩu nào đối với nông sản. Tuy vậy, cam kết này không ảnh hưởng đến các quyền của Việt Nam theo quy định hiện hành của WTO đối với các hỗ trợ trong nước. Việt Nam bảo lưu quyền được hưởng một số quy định riêng của WTO dành cho các nước đang phát triển trong lĩnh vực này. Đối với các loại hỗ trợ mà WTO quy định phải cắt giảm như một số hình thức hỗ trợ lãi xuất để thu mua nông sản, hỗ trợ dưới hình thức quy định giá sàn cho nông sản v.v.. (trợ cấp "hổ phách"), nhìn chung Việt Nam duy trì được trợ cấp ở mức không quá 10% giá trị sản lượng. Ngoài mức này, ta còn bảo lưu thêm được một khoản hỗ trợ nữa vào khoảng 4.000 tỷ đồng/năm. Có thể nói, trong nhiều năm tới, ngân sách Việt Nam cũng chưa đủ sức để hỗ trợ cho nông nghiệp ở mức này. Các loại trợ cấp mang tính khuyến nông, phát triển thủy lợi là trợ cấp "hộp xanh" hay trợ cấp phục vụ phát triển nông nghiệp, được WTO cho phép nên Việt Nam được áp dụng không hạn chế. Việc áp dụng các loại hỗ trợ này đối với nông sản phải phù hợp với các quy định của WTO .
-
Hiệp định về áp dụng các biện pháp vệ sinh và kiểm dịch động thực vật (Hiệp định SPS) . Hiệp định SPS điều chỉnh việc áp dụng các biện pháp vệ sinh và kiểm dịch động thực vật liên quan đến sức khoẻ của người, động thực vật và an toàn thực phẩm. Hiệp định SPS thừa nhận rằng các chính phủ có quyền thực hiện các biện pháp SPS để bảo vệ người dân. Tuy nhiên, các biện pháp này cần được áp dụng ở mức độ cần thiết để phòng ngừa và bảo vệ cuộc sống và sức khoẻ của con người, động vật và thực vật. Các biện pháp này về bản chất phải có căn cứ khoa học hoặc không phân biệt đối xử đối với các sản phẩm của các thành viên WTO khác nhau khi có cùng các điều kiện.
Nói chung, các biện pháp vệ sinh và kiểm dịch động thực vật phải dựa trên các quy chuẩn, tiêu chuẩn quốc tế. Các thành viên WTO có thể áp dụng các quy chuẩn, tiêu chuẩn quốc gia cao hơn các quy chuẩn, tiêu chuẩn quốc tế nếu điều đó là có cơ sở khoa học, hoặc có sự đánh giá thoả đáng về khả năng xẩy ra rủi ro nếu không đặt ra yêu cầu phải áp dụng các quy chuẩn, tiêu chuẩn cao hơn đó. Hiệp định SPS thiết lập các thủ tục áp dụng các quy chuẩn, tiêu chuẩn SPS. Hiệp định SPS cũng quy định về sự thừa nhận lẫn nhau về các quy chuẩn, tiêu chuẩn vệ sinh, dịch tễ và kiểm dịch của các nước khác nhau và cũng có các quy định về việc đánh giá sự phù hợp với quy chuẩn, tiêu chuẩn quốc gia và cho phép các sản phẩm từ các thành viên WTO khác nhau nhập khẩu vào các thị trường các nước WTO.
Khi nghiên cứu các quy định của Hiệp định SPS, cần chú ý các cam kết của Việt Nam liên quan đến Hiệp định SPS. Việt Nam đã cam kết áp dụng đầu đủ các quy định của Hiệp định SPS kể từ ngày gia nhập WTO mà không cần có bất kỳ thời gian chuyển đổi nào, các cơ quan quản lý chuyên ngành của Việt Nam sẽ áp dụng các biện pháp SPS phù hợp với tất cả các quy định liên quan của Hiệp định SPS. Việt Nam phải thực hiện các quy định kỹ thuật về ấn định thời hạn sử dụng đối với nguyên liệu thực phẩm chưa chế biến và phụ gia thực phẩm vào thời điểm gia nhập WTO. Đối với tất cả các sản phẩm khác, Việt Nam chấp thuận nguyên tắc “sử dụng tốt nhất trước…” (Best before…) theo khuyến cáo của nhà sản xuất.
Các hạn chế nhập khẩu dựa trên các biện pháp về thời hạn sử dụng được áp dụng cho các nguyên liệu thực phẩm chưa chế biến và phụ gia thực phẩm phải được dựa trên các nguyên tắc khoa học bao gồm các tiêu chuẩn quốc tế liên quan.
-
Hiệp định về các hàng rào kỹ thuật liên quan đến thương mại (Hiệp định TBT). Hiệp định TBT được áp dụng cho các yêu cầu về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật được soạn thảo để áp dụng cho tất cả các sản phẩm, trừ phần các yêu cầu về SPS được soạn thảo để áp dụng cho sản phẩm là thực phẩm được quy định trong Hiệp định SPS. Hiệp định TBT công nhận rằng các nước có quyền sử dụng các tiêu chuẩn quốc tế để quy định các quy chuẩn, tiêu chuẩn tối thiểu của nước mình mà sản phẩm nhập khẩu cần phải được đáp ứng, nhưng cũng cho phép các nước được duy trì các quy chuẩn, tiêu chuẩn hiện hành của mình nếu các quy chuẩn, tiêu chuẩn đó không tuỳ tiện và phân biệt đối xử đối với hàng hoá của các thành viên WTO khác.
Hiệp định TBT chứa đựng các quy định tương đối phức tạp điều chỉnh các thủ tục, quy trình mà theo đó các nước cần áp dụng để công nhận các tiêu chuẩn kỹ thuật mà các nước khác áp dụng là phù hợp với quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật của nước mình.
Khi nghiên cứu các quy định của Hiệp định TBT, cần chú ý các cam kết của Việt Nam liên quan đến Hiệp định TBT. Việt Nam đã cam kết áp dụng đầy đủ các quy định của Hiệp định TBT kể từ ngày gia nhập WTO mà không cần có bất kỳ thời gian chuyển đổi nào, các cơ quan quản lý chuyên ngành của Việt Nam sẽ áp dụng các biện pháp TBT phù hợp với tất cả các quy định liên quan của Hiệp định TBT. Hơn nữa, với mục đích nâng cao tính minh bạch và có thể dự báo trước được các rủi ro trong hoạt động thương mại, kinh doanh quốc tế, Việt Nam phải ban hành các biện pháp đã được quy định cụ thể trong các Điều 2.1, 2.2, 5.1, 5.2, 5.4 và Phụ lục 1.1 của Hiệp định TBT.
- Hiệp định về các khía cạnh thương mại của các biện pháp đầu tư (Hiệp định TRIMS) Hiệp định TRIMS quy định rằng không một thành viên nào của WTO có thể được áp dụng một biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (TRIMS). Việc áp dụng bất kỳ biện pháp TRIMS nào cũng đều vi phạm nghĩa vụ đối xử quốc gia theo Hiệp định GATT 1994 hoặc vi phạm quy định liên quan đến việc áp dụng các hạn chế về số lượng của Hiệp định GATT 1994. Hiệp định TRIMS không có quy định cụ thể các biện pháp TRIMS mà chỉ đưa ra một số ví dụ minh họa về các biện pháp bị cấm này chẳng hạn như yêu cầu doanh nghiệp đầu tư nước ngoài phải mua một số phần trăm nhất định hàng hoá của thị trường nội địa (các yêu cầu về hàm lượng nội địa) hoặc các yêu cầu về khối lượng hoặc giá trị của hàng hoá nhập khẩu mà một doanh nghiệp đầu tư nước ngoài có thể mua nhưng phải gắn số lượng hoặc giá trị của sản phẩm đó với số lượng hoặc giá trị của sản phẩm mà doanh nghiệp đó phải xuất khẩu (các yêu cầu về cân bằng cán cân thương mại).
Khi nghiên cứu các quy định của Hiệp định TRIMS, cần chú ý các cam kết của Việt Nam liên quan đến Hiệp định TRIMS. Việt Nam đã cam kết áp dụng đầy đủ các quy định của Hiệp định TRIMS kể từ ngày gia nhập WTO mà không cần có bất kỳ thời gian chuyển đổi nào; các cơ quan quản lý chuyên ngành của Việt Nam sẽ áp dụng các quy định của pháp luật Việt Nam phù hợp với tất cả các quy định liên quan của Hiệp định TRIMS, mà không ảnh hưởng đến các cam kết của Việt Nam ở đoạn 286 và 288 của Báo cáo của Ban công tác (trong đó quy định cho phép Việt Nam có thời hạn 05 năm để loại bỏ các trợ cấp xuất khẩu nhất định được căn cứ vào kết quả hoạt động xuất khẩu).
- Hiệp định thực thi Điều VI của GATT 1994(Hiệp định Chống bán phá giá- Hiệp định AD) . Hiệp định AD được xây dựng căn cứ vào Điều VI của Hiệp định GATT 1994, quy định các quyền cơ bản để các thành viên WTO áp dụng các biện pháp chống lại hành vi bán phá giá để đối phó lại việc nhập khẩu không lành mạnh các sản phẩm thương mại khi đáp ứng các điều kiện nhất định. Hiệp định AD quy định cụ thể và chi tiết về thủ tục xác định liệu một sản phẩm nước ngoài có phải là được bán phá giá tại thị trường của nước nhập khẩu hay không và tiêu chí mà cơ quan điều tra có thể sử dụng khi đưa ra quyết định liệu các hàng hoá nhập khẩu đó có gây thiệt hại cho một ngành sản xuất trong nước hay không?
Hiệp định AD cũng nhấn mạnh yêu cầu về việc phải chứng minh rằng có mối quan hệ nhân quả rõ ràng giữa việc có bán phá giá đã được kết luận và sự thiệt hại đối với các nhà sản xuất các sản phẩm tương tự trong nước nhập khẩu. Các quy định quan trọng khác gồm yêu cầu việc điều tra chống bán phá giá phải chấm dứt ngay khi xác định biên độ bán phá giá nhỏ hơn 02% giá xuất khẩu của sản phẩm, hoặc số lượng hàng nhập khẩu được bán phá giá là không đáng kể, có thể bỏ qua về số lượng.
WTO có các quy tắc về thủ tục tiến hành các vụ điều tra chống bán phá giá và các yêu cầu về việc các bên có liên quan được có cơ hội để trình bày quan điểm. Hiệp định AD cũng yêu cầu biện pháp chống bán phá giá phải được chấm dứt sau 05 năm kể từ ngày áp dụng, trừ khi cơ quan quản lý nhà nước xác định rằng nếu biện pháp chống bán phá giá bị chấm dứt thì việc bán phá giá và tổn hại sẽ có thể lại diễn ra.
Khi nghiên cứu các quy định của Hiệp định AD, cần chú ý các cam kết của Việt Nam liên quan đến Hiệp định AD. Việt Nam đã cam kết áp dụng đầy đủ các quy định của Hiệp định AD kể từ ngày gia nhập WTO mà không cần có bất kỳ thời gian chuyển đổi nào. Việt Nam đảm bảo rằng bất kỳ văn bản quy phạm pháp luật nào của Việt Nam về việc áp dụng các biện pháp chống bán phá giá có hiệu lực vào thời điểm Việt Nam gia nhập WTO đều phù hợp với các quy định của WTO về chống bán phá giá. Hơn thế nữa, Việt Nam sẽ không áp dụng các biện pháp chống bán phá giá cho đến khi các văn bản quy phạm pháp luật của mình chưa phù hợp hoàn toàn với các điều khoản của Hiệp định AD. Mặt khác cũng cần lưư ý, sau khi gia nhập WTO, Điều VI của Hiệp định GATT 1994, Hiệp định AD sẽ được áp dụng trong các vụ kiện liên quan đến hàng hoá xuất khẩu từ Việt Nam sang một thành viên WTO phù hợp với các điểm sau:
+ (a) Khi tiến hành so sánh giá theo Điều VI của GATT 1994 và Hiệp định AD, nước thành viên WTO là nước nhập khẩu phải sử dụng giá hoặc chi phí ở Việt Nam đối với ngành hàng đang được điều tra hoặc là một phương pháp không dựa trên sự so sánh chặt chẽ với chi phí hoặc giá cả ở Việt Nam. Quy tắc để lựa chọn phương pháp phù hợp là: Nếu các nhà sản xuất trong diện điều tra có thể chỉ ra rõ ràng rằng các điều kiện của nền kinh tế thị trường đang tồn tại trong ngành sản xuất mặt hàng tương tự đối với các vấn đề sản xuất và bán mặt hàng đó, nước nhập khẩu là thành viên WTO khi xác định tương quan giá phải sử dụng, giá và chi phí ở Việt Nam cho ngành sản xuất trong diện điều tra. Nước nhập khẩu là thành viên WTO có thể sử dụng một phương pháp không dựa trên sự so sánh chặt chẽ với giá cả và chi phí ở Việt Nam nếu các nhà sản xuất trong diện điều tra không thể chỉ ra rõ ràng rằng các điều kiện của nền kinh tế thị trường đang tồn tại trong ngành sản xuất mặt hàng tương tự đối với các vấn đề sản xuất và bán mặt hàng đó.
+ (b) Trong các vụ kiện tiến hành theo phần II, III và V của Hiệp định chống trợ cấp (Hiệp định SCM), khi xử lý vấn đề trợ cấp, các quy định của Hiệp định SCM được áp dụng. Tuy nhiên, nếu có những khó khăn đặc biệt cản trở việc áp dụng các quy định đó, nước nhập khẩu là thành viên WTO có thể sử dụng các phương pháp khác nhằm xác định và tính mức độ trợ cấp, có cân nhắc đến khả năng các điều kiện đang tồn tại ở Việt Nam có thể không phải là những cơ sở đối chiếu phù hợp.
+ Nước nhập khẩu là thành viên WTO phải thông báo phương pháp được sử dụng theo điểm (a) trên cho Ủy ban về bán phá giá và thông báo phương pháp được sử dụng điểm (b) trên cho Ủy ban về Trợ cấp và các biện pháp đối kháng.
+ Một khi Việt Nam khẳng định được rằng nền kinh tế nước mình là kinh tế thị trường chiểu theo luật quốc gia của nước nhập khẩu là nước thành viên WTO, các quy định tại điểm (a) sẽ hết hiệu lực với điều kiện luật quốc gia của nước thành viên có quy định các tiêu chí về kinh tế thị trường tại thời điểm gia nhập. Tuy vậy, trong mọi trường hợp, các quy trong điểm (a) sẽ hết hiệu lực vào ngày 31/12/2018. Ngoài ra, nếu trong quan hệ song phương nếu Việt Nam chứng minh được rằng các điều kiện của kinh tế thị trường đã tồn tại ở một ngành hay lĩnh vực cụ thể theo luật quốc gia của nước nhập khẩu là nước thành viên WTO, thì các quy định trong điểm (a) về nền kinh tế phi thị trường sẽ không còn áp dụng cho ngành hoặc lĩnh vực đó trong quan hệ với nước đối tác cụ thể.
-Hiệp định thực thi Điều VII (Hiệp định về Trị giá tính thuế hải quan CVA) Điều VII GATT về trị giá tính thuế hải quan đưa ra yêu cầu khi một nước Thành viên WTO áp thuế nhập khẩu đối với hàng hoá có xuất xứ từ nước Thành viên WTO khác thì giá trị của hàng hoá được sử dụng để tính thuế phải nộp, phải được tính theo các quy tắc cụ thể.
CVA quy định về phương pháp tính giá trị hàng hoá cho mục đính áp thuế nhập khẩu và các thuế khác. CVA khẳng định quyền của các cán bộ hải quan Việt Nam được yêu cầu các nhà nhập khẩu cung cấp thông tin khi họ có nghi ngờ về giá trị đích thực của hàng hoá nhập khẩu. Khi có nghi ngờ về giá trị hàng hóa nhập khẩu được khai báo, CVA cho phép cán bộ hải quan
Việt Nam áp dụng các thủ tục mà nhà nhập khẩu phải tuân thủ khi xác định giá trị của hàng hoá nhập khẩu.
Khi nghiên cứu các quy định của Hiệp định CVA, cần chú ý các cam kết của Việt Nam liên quan đến Hiệp định CVA. Việt Nam đã cam kết áp dụng đầy đủ các quy định của Hiệp định CVA kể từ ngày gia nhập WTO mà không cần có bất kỳ thời gian chuyển đổi nào. Việt Nam đảm bảo rằng bất kỳ phương pháp xác định giá tính thuế nào được áp dụng cũng sẽ tuân thủ các quy định của WTO. Việt Nam phải đảm bảo rằng việc áp giá tối thiểu, hoặc bất kỳ hình thức giá tham khảo hoặc bảng giá cố định nào để xác định giá tính thuế của hàng hoá nhập khẩu thay cho giá giao dịch đều đã bị xoá bỏ, và không được sử dụng lại. Mọi phương pháp xác định giá tính thuế của hàng hóa xuất, nhập khẩu đều tuân thủ nghiêm ngặt những quy định của Hiệp định CVA.
Việt Nam phải thực hiện Quyết định 3.1 sớm nhất có thể, nhưng trong bất kỳ trường hợp nào cũng không muộn hơn 2 năm sau khi Việt Nam gia nhập WTO và thực hiện đoạn 2 Quyết định 4.1 ngay sau khi gia nhập. Việt Nam phải thông báo cho Ủy ban xác định trị giá hải quan của WTO về bất kỳ thay đổi nào của bất kỳ luật, nghị định, quy định hoặc thông tư nào khác liên quan tới Hiệp định CVA của WTO, bao gồm cả những thay đổi có liên quan đến việc thực thi và quản lý các quy định của Hiệp định.
- Hiệp định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng (Hiệp định SCM) Hiệp định SCM làm rõ và bổ sung thêm cho các quy định của các Điều VI, XVI và XXIII của GATT 1994. Hiệp định SCM đưa ra định nghĩa thế nào được coi là “trợ cấp” và quy định rõ chỉ các trợ cấp “cụ thể”, tức là các trợ cấp chỉ dành cho một doanh nghiệp hoặc một ngành công nghiệp cụ thể chứ không phải trợ cấp chung, được điều chỉnh bởi Hiệp định SCM. Có ba loại trợ cấp được xác định trong Hiệp định SCM cụ thể như sau:
+ Các trợ cấp bị cấm là các trợ cấp chỉ dành cho một doanh nghiệp nếu doanh nghiệp xuất khẩu sản phẩm. Hiệp định SCM cũng cấm các trợ cấp chỉ dành với điều kiện sử dụng hàng hoá trong nước thay cho hàng hoá nhập khẩu được xử dụng trong việc sản xuất hàng hoá. Các trợ cấp bị cấm phải bị loại bỏ ngay lập tức nếu Cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO xác định rằng đó là các trợ cấp bị cấm.
+ Các trợ cấp có thể bị kiện là các trợ cấp của chính phủ dành cho các ngành công nghiệp trong lãnh thổ của mình. Nếu các hàng hoá được sản xuất với những lợi ích có được từ các trợ cấp này được xuất khẩu và gây ra tổn hại cho các nhà sản xuất các hàng hoá tương tự của nước nhập khẩu hàng thì nước nhập khẩu có thể áp thuế đối kháng đối với hàng hoá đó để bù đắp cho những ảnh hưởng của việc trợ cấp.
+ Các trợ cấp không bị kiện là các trợ cấp không cụ thể hoặc là các trợ cấp được dành cho việc thúc đẩy nghiên cứu và phát triển sản xuất hoặc để thúc đẩy phát triển vùng hoặc để hỗ trợ nâng cấp phương tiện kỹ thuật cho phù hợp với các yêu cầu mới về môi trường. Giống như Hiệp định về chống bán phá giá, Hiệp định SCM đặt ra các quy tắc và thủ tục mà Việt Nam phải tuân thủ khi thực hiện các điều tra về trợ cấp và đối kháng. Nghị định thư gia nhập WTO của Việt Nam cho phép các thành viên WTO khác được đối xử với các sản phẩm của Việt Nam như là các sản phẩm từ một nền kinh tế phi thị trường chỉ với các điều kiện nhất định. Chậm nhất là 31.12. 2018, các quy định về kinh tế phi thị trường trong thủ tục điều tra chống bán phá giá và đối kháng của các nước áp dụng đối với hàng hóa Việt Nam sẽ phải bị loại bỏ.
Khi nghiên cứu các quy định của Hiệp định SCM, cần chú ý các cam kết của Việt Nam liên quan đến Hiệp định SCM. Việt Nam đã cam kết áp dụng đầy đủ các quy định của Hiệp định SCM kể từ ngày gia nhập WTO mà không cần có bất kỳ thời gian chuyển đổi nào. Việt Nam đảm bảo rằng kể từ ngày gia nhập, Việt Nam phải áp dụng việc miễn thuế nhập khẩu và cơ chế hoàn thuế nhập khẩu theo đúng các quy định của Hiệp định SCM, cụ thể là của Phụ lục I và II của Hiệp định, phù hợp với các cam kết theo các đoạn 286 và 288 báo cáo của ban Công tác. Ngay sau khi gia nhập WTO, Việt Nam xoá bỏ toàn bộ các loại trợ cấp bị cấm dành cho hàng dệt may (như trợ cấp dựa trên thành tích xuất khẩu hoặc khuyến khích sử dụng hàng hoá sản xuất trong nước thay thế hàng nhập khẩu), bao gồm nhưng không chỉ giới hạn đối với các trợ cấp dưới hình thức ưu đãi đầu tư cho các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài dựa trên thành tích xuất khẩu, các trợ cấp khuyến khích xuất khẩu dựa trên thành tích xuất khẩu và các trợ cấp xúc tiến thương mại dựa trên thành tích xuất khẩu. Kể từ thời điểm gia nhập WTO, Chính phủ Việt Nam đảm bảo thực thi các nghĩa vụ của WTO trong các khu chế xuất và khu công nghiệp, khu công nghệ cao và bất kỳ khu nào khác có các ưu đãi và mục tiêu tương tự. Việt Nam phải bãi bỏ bất kỳ điều khoản nào đặt điều kiện để được thành lập trong các khu này, hay để đáp ứng được hưởng hoặc được nhận các ưu đãi về thuế hay các ưu đãi khác trên cơ sở có xuất khẩu, thành tích xuất khẩu hoặc sử dụng hàng hoá sản xuất trong nước. Không ảnh hưởng tới các cam kết của Việt Nam trong các đoạn 286 và 288 của Báo cáo gia nhập, tất cả trợ cấp trong các khu công nghiệp và khu chế xuất thuộc Điều 3 của Hiệp định SCM của WTO phải được bãi bỏ vào thời điểm gia nhập hoặc trước khi gia nhập và những loại trợ cấp đó sẽ không được tái áp dụng. Hơn nữa, Việt Nam không áp dụng bất kỳ loại trợ cấp mới nào không phù hợp với Điều 3.1(a) hoặc Điều 3.1(b) sau khi gia nhập. Ngoài ra, kể từ thời điểm gia nhập, hàng hóa được sản xuất trong các khu chế xuất hoặc khu công nghiệp hoặc bất kỳ khu nào khác có các ưu đãi và lợi ích tương tự quy định về miễn thuế hải quan và thuế nội địa nhất định nào đó đối với hàng hoá nhập khẩu và nguyên liệu sản xuất nhập khẩu phải tuân thủ các thủ tục hải quan thông thường khi được đưa vào tiêu thụ tại thị trường Việt Nam, bao gồm cả việc áp dụng thuế hải quan và thuế nội địa.
-
Hiệp định về các biện pháp tự vệ (Hiệp định SG) Hiệp định SG cụ thể hoá và quy định chi tiết các quy tắc của Điều XIX của GATT 1994 (điều khoản tự vệ). Điều XIX cho phép Việt Nam được quyền có các hành động, thông qua thuế quan hoặc hạn ngạch, để bảo vệ ngành sản xuất trong nước cụ thể tránh khỏi thiệt hại do việc gia tăng nhập khẩu có quy mô lớn không dự đoán trước của hàng hoá nước ngoài vào trong nước. Hiệp định SG đặt ra tiêu chí để xác định thế nào là thiệt hại nghiêm trọng và đặt ra các giới hạn về mức độ mà nước nhập khẩu có thể áp dụng để hạn chế việc nhập khẩu từ nước ngoài. Một giới hạn về thời gian là 04 năm cho việc áp dụng các biện pháp tự vệ được áp dụng, mặc dù trong một số trường hợp đặc biệt, thời hạn này có thể kéo dài đến 8 năm nếu chính phủ chứng minh được rằng sự cần phải tiếp tục phải có biện pháp tự vệ. Một biện pháp tự vệ phải được Chính Phủ Việt Nam loại bỏ dần dần trong thời gian áp dụng, có nghĩa là trong thời hạn áp dụng, các biện pháp này phải ngày càng bớt dần hạn chế đối với việc nhập khẩu. Trong một số trường hợp nhất định, các biện pháp tự vệ với thời hạn ngắn là 180 ngày hoặc ngắn hơn có thể được áp dụng. Thông thường, một quốc gia sử dụng các biện pháp tự vệ phải có bồi thường thông qua những nhượng bộ thương mại, cho giá trị thương mại của nước xuất khẩu đã bị giảm do biện pháp tự vệ, chỉ sau 03 năm đầu áp dụng biện pháp tự vệ.
Khi nghiên cứu các quy định của Hiệp định SG, cần chú ý các cam kết của Việt Nam liên quan đến Hiệp định SG. Việt Nam đã cam kết áp dụng đầy đủ các quy định của Hiệp định SG kể từ ngày gia nhập WTO mà không cần có bất kỳ thời gian chuyển đổi nào. Việt Nam đảm bảo rằng bất kỳ văn bản quy phạm pháp luật nào của Việt Nam về việc áp dụng biện pháp tự vệ có hiệu lực vào thời điểm Việt Nam gia nhập WTO đều phù hợp với các quy định về biện pháp tự vệ của WTO .
Phụ lục 1b: Hiệp định đa biên về thương mại dịch vụ (GATS) 03/06/2015 | 00:00:00
(a) Các quyền và nghĩa vụ cơ bản của Việt Nam theo GATS - Cơ cấu các quyền và nghĩa vụ WTO trong thương mại dịch vụ khác với cơ cấu các quyền và nghĩa vụ WTO trong thương mại hàng hoá và được điều chỉnh bởi các quy định về quyền và nghĩa vụ trong GATS. GATS cũng có những khái niệm cơ bản như các nghĩa vụ đối với thương mại hàng hoá của WTO, nhưng đã được điều chỉnh với các đặc điểm riêng của thương mại dịch vụ. Các quyền và nghĩa vụ trong GATS áp dụng đối với tất cả các biện pháp ảnh hướng đến dịch vụ và nhà cung cấp dịch vụ, trong khi đó các cam kết cụ thể chỉ áp dụng đối với “các dịch vụ được cam kết” được liệt kê trong các Biểu cam kết về dịch vụ. Phạm vi của các quyền và nghĩa vụ và cam kết cụ thể trong GATS áp dụng với tất cả các cơ quan chính phủ và các cơ quan có thẩm quyền ở các cấp.
- Ngoài các quyền và nghĩa vụ chung trong GATS, Biểu cam kết theo GATS đã được Việt Nam chấp nhận liệt kê các cam kết cụ thể và các hạn chế về tiếp cận thị trường, đối xử quốc gia đối với các lĩnh vực dịch vụ hoặc tiểu lĩnh vực dịch vụ được đưa vào biểu cam kết. Các cam kết cụ thể của Việt Nam về hạn chế tiếp cận thị trường và đối xử quốc gia đối với các lĩnh vực dịch vụ hoặc tiểu lĩnh vực dịch vụ cam kết được quy định cụ thể theo bốn “phương thức cung cấp dịch vụ”:
Phương thức 1: cung cấp dịch vụ qua biên giới;
Phương thức 2: tiêu dùng dịch vụ ở nước ngoài;
Phương thức 3: hiện diện thương mại để cung cấp dịch vụ; và
Phương thức 4: hiện diện của thể nhân để cung cấp dịch vụ.
Nếu chưa có cam kết nào về tiếp cận thị trường và đối xử quốc gia thì biểu cam kết ghi là “chưa cam kết”. Nếu không có hạn chế nào về tiếp cận thị trường và đối xử quốc gia thì biểu cam kết ghi là “không hạn chế” nghĩa là được tự do trong tiếp cận thị trường theo phương thức cung cấp dịch vụ đã chọn mà không bị cản trở nào. Một số cam kết cụ thể của Việt Nam về tiếp cận thị trường ở phương thức 3 ở dưới dạng là có hạn chế đối với phần vốn của nhà đầu tư nước ngoài trong một doanh nghiệp trong một thời hạn nhất định, ví dụ như trong vòng hai năm kể từ ngày gia nhập, nhưng sau thời gian chuyển đổi này, cam kết “không hạn chế” lúc này có nghĩa là không có hạn chế nào.
- Khi nghiên cứu các quy định của GATS, cần chú ý các cam kết của Việt Nam liên quan đến GATS. Việt Nam cam kết thực hiện đầy đủ các quy định của GATS. Các quyền và nghĩa vụ cơ bản của Việt Nam theo GATS gồm:
+Đối xử MFN: Tất cả các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài phải được đối xử như nhau về thuế, cấp phép và các quy định pháp luật;
+Minh bạch, công khai chính sách và pháp luật: Nghĩa vụ này yêu cầu các luật, quy định và thực tiễn hành chính phải được đăng tải công khai, các biện pháp này phải được thông báo trước cho các nước thành viên WTO và một Điểm cung cấp thông tin (hay là một Điểm hỏi đáp Đầu mối quốc gia đối với các nước đang phát triển) phải được thành lập để trả lời các yêu cầu về thông tin liên quan đến các quy định pháp luật và chính sách ảnh hưởng đến các ngành dịch vụ cụ thể ;
+ Thủ tục pháp lý trong nước công bằng và thích hợp (“thủ tục pháp lý thích hợp”): đây là một nghĩa vụ chung nhưng chỉ áp dụng đối với “các dịch vụ được quy định tại Biểu cam kết”; và
+Việt Nam không được hạn chế việc chuyển tiền trong các khoản thanh toán quốc tế đối với các giao dịch lai vãng lai, ngoại trừ trường hợp khẩn cấp về cán cân thanh toán quốc tế, các hạn chế đối với chuyển vốn tuân thủ các quy định và nghĩa vụ của IMF.
+Việt Nam được quyền sử dụng các ngoại lệ khác nhau đối với các nghĩa vụ cơ bản theo GATS. Các ngoại lệ này có thể là: Các ngoại lệ chung gồm các biện pháp cần thiết để bảo vệ đạo đức và trật tự xã hội; cuộc sống và sức khoẻ của con người, động vật và thực vật; ngăn chặn các hành vi lừa đảo và gian lận, bảo vệ an toàn và tự do cá nhân; và đảm bảo cho việc thu thuế theo các hiệp định quốc tế. Các ngoại lệ cũng có thể là ngoại lệ về MFN và cũng có thể là “ngoại lệ về an ninh” đối với các biện pháp bảo đảm an ninh quốc gia, bao gồm các mục đích quân sự và việc xử lý các nguyên liệu hạt nhân hoặc các biện pháp tiến hành theo Hiến chương Liên Hợp quốc. Bên cạnh đó, có các ngoại lệ trong các lĩnh vực cụ thể, như ngoại lệ “đảm bảo sự an toàn, thận trọng ” trong lĩnh vực dịch vụ tài chính.
b. Những quyền và nghĩa vụ bổ sung của Việt Nam trong WTO - Khi nghiên cứu các quy định của GATS, cần chú ý các quyền và nghĩa vụ bổ sung của Việt Nam theo GATS gồm:
+Các cam kết được gọi là “Cam kết nền”, trên thực tế chúng bao gồm các hạn chế cụ thể về tiếp cận thị trường hoặc việc áp dụng đối xử quốc gia, được áp dụng đối với tất cả “các dịch vụ trong Biểu cam kết”.
Việt Nam đã cam kết nền bao gồm các hạn chế về tiếp cận thị trường (chủ yếu là phương thức 3) đối với các hoạt động dịch vụ trong lĩnh vực đầu tư cụ thể như: Hình thức pháp lý của các doanh nghiệp có thể đầu tư ở Việt Nam;Việc mua cổ phần của các doanh nghiệp Việt Nam bị hạn chế ở mức 30% trong vòng 01 năm kể từ ngày gia nhập; và doanh nghiệp đầu tư nước ngoài bị hạn chế chỉ được thuê đất cho các dự án đầu tư theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Các cam kết nền về di chuyển thể nhân hoặc hiện diện của thể nhân chỉ đề cập tới các nhà quản lý hoặc các chuyên gia kỹ thuật. Như các nước khác đã gia nhập WTO, quy định này thu hẹp và hạn chế số lượng người có thể đáp ứng đủ điều kiện. Các hạn chế nền về đối xử quốc gia liên quan đến việc cung cấp các khoản trợ cấp đối với doanh nghiệp Việt Nam, trợ cấp cho việc nghiên cứu và phát triển, trợ cấp cho các lĩnh vực y tế, đào tạo và nghe nhìn cũng như các trợ cấp hỗ trợ cho phúc lợi xã hội và việc làm cho các dân tộc thiểu số.
+ Các cam kết cụ thể về tiếp cận thị trường và đối xử quốc gia và những hạn chế liên quan được nêu cụ thể đối với bốn “phương thức cung cấp dịch vụ” được ghi cụ thể trong Biểu các cam kết cụ thể của Việt Nam liên quan tới các lĩnh vực dịch vụ và tiểu lĩnh vực dịch vụ theo GATS như sau: các cam kết và các hạn chế về tiếp cận thị trường đối với các phương thức cung cấp dịch vụ khác nhau; Các cam kết và các hạn chế đối với việc áp dụng đối xử quốc gia đối với các quy định được cam kết; và các cam kết bổ sung đối với một số lĩnh vực, ví dụ như các nguyên tắc điều chỉnh cho viễn thông.
+ Các cam kết cụ thể của Việt Nam trong thương mại dịch vụ điều chỉnh ở phạm vi rộng, nhiều lĩnh vực và tiểu lĩnh vực dịch vụ. Đối với các dịch vụ được cam kết, Việt Nam có ít hạn chế về cung cấp dịch vụ qua biên giới hoặc tiêu dùng ở nước ngoài (trong lĩnh vực nghe nhìn Việt Nam giữ quyền được áp dụng các hạn chế đối với việc cung cấp dịch vụ qua biên giới hoặc tiêu dùng ở nước ngoài). Các hạn chế về tiếp cận thị trường ở Phương thức 3, hiện diện thương mại và đầu tư rất phức tạp với các điều khoản chuyển đổi từ một đến ba năm sau khi gia nhập. Sau ba năm, các doanh nghiệp do nước ngoài kiểm soát được phép đầu tư ở hầu hết các lĩnh vực.
Ngoài các cam kết như đã nêu trên, Việt Nam còn có một số hạn chế về đối xử quốc gia được đưa ra đối với các lĩnh vực và tiểu lĩnh vực dịch vụ được cam kết.
+Việt Nam đã đàm phán thành công để có một số ngoại lệ MFN trong các lĩnh vực. Các ngoại lệ đối với MFN có thể là các ngoại lệ có thời hạn, chẳng hạn như ngoại lệ trong dịch vụ vận tải biển theo các hiệp định song phương với Singapore là 10 năm, với các nước khác là 05 năm. Các ngoại lệ đối với MFN có thể là các ngoại lệ không có thời hạn, chẳng hạn như ngoại lệ trong lĩnh vực đầu tư trong trong tất cả các ngành theo phương thức hiện diện thương mại theo các hiệp định song phương với các nước về đầu tư, về một số hoạt động trong thương mại dịch vụ nghe nhìn. Các ngoại lệ đối với MFN cũng có thể là các ngoại lệ chung đối với MFN theo quy định của Điều V của GATS về các hiệp định hội nhập khu vực điều chỉnh đáng kể các lĩnh vực dịch vụ và các phương thức cung cấp dịch vụ.
Các trợ cấp dành cho các nhà cung cấp dịch vụ trong nước không thuộc phạm vi ngoại lệ đối với MFN, ngoại trừ nghĩa vụ tham vấn (do không có ngoại lệ chung đối với Đối xử quốc gia cho trợ cấp và các trợ cấp này phải được đưa vào cam kết đối với “các dịch vụ trong Biểu cam kết”). Việc mua sắm hàng hoá, dịch vụ phục vụ cho việc thực thi công quyền của chính phủ (mua sắm công) được loại trừ khỏi GATS. Ngoài ra, Việt Nam cũng được quyền có các hạn chế trong thanh toán quốc tế trong những trường hợp nhất định nhưng phải chịu sự giám sát của WTO và IMF.
Phụ lục 1c: Hiệp định đa biên về thương mại liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ (TRIPS) 03/06/2015 | 00:00:00
(a) Các quyền và nghĩa vụ cơ bản của Việt Nam theo TRIPS Hiệp định về các khía cạnh thương mại liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ (Hiệp định TRIPS) là hiệp định cơ bản thứ ba trong các hiệp định WTO, sau Hiệp định đa phương về thương mại hàng hoá và GATS. Hiệp định TRIPS quy định một khuôn khổ quốc tế để bảo hộ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ cũng như các biện pháp được thống nhất để đối phó với việc mua bán hàng giả trên phạm vi quốc tế. Hiệp định được xây dựng trên cơ sở các điều ước quốc tế đã có trước đó liên quan đến bảo vệ sáng chế, quyền tác giả, nhãn hiệu hàng hoá và các vấn đề có liên quan, và quy định các biện pháp thực thi hiệu quả các quyền này cùng với khả năng giải quyết các tranh chấp trong khuôn khổ WTO.
Hiệp định TRIPS được chia thành sáu phần. Phần I quy định các nguyên tắc cơ bản, bao gồm đối xử quốc gia, theo đó tất cả các nước Thành viên WTO phải dành chế độ đối xử đối với sở hữu trí tuệ của nước ngoài không kém thuận lợi hơn so với chế độ đối xử đối với sở hữu trí tuệ trong nước. Phần này cũng có quy định về đối xử tối huệ quốc trong đó các thành viên WTO thoả thuận không phân biệt đối xử giữa các tài sản trí tuệ của một nước thành viên WTO này với tài sản trí tuệ của bất kỳ một nước thành viên WTO nào khác. Điều này có nghĩa trên thực tế là Chính phủ Việt Nam phải bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan, quyền đối với các tài sản trí tuệ khác như sáng chế, nhãn hiệu thương mại, kiểu dáng công nghiệp, chỉ dẫn địa lý, các thiết kế bố trí mạch tích hợp, bí mật thương mại của nước ngoài như bảo vệ các tài sản trí tuệ và quyền đối với các tài sản trí tuệ của cá nhân, tổ chức Việt Nam và không được dành đối xử ưu đãi hơn đối với các tài sản trí tuệ và quyền đối với các tài sản trí tuệ của một nước này so với tài sản trí tuệ và quyền đối với các tài sản trí tuệ có nguồn gốc từ một nước khác.
Phần II quy định chi tiết về các quyền sở hữu trí tuệ đã có từ trước khi các Hiệp định WTO có hiệu lực, bao gồm Công ước Berne về bảo hộ quyền tác giả đối với các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, và Công ước Paris về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp. Phần II này cũng quy định các tiêu chuẩn tối thiểu mà các nước Thành viên WTO phải tuân thủ khi đối xử với các quyền sở hữu trí tuệ của các nước Thành viên WTO khác. Điều đó có nghĩa là quốc tế có các tiêu chuẩn tối thiểu nhất định về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ mà Việt Nam phải tuân thủ.
Phần III quy định về thực thi quyền sở hữu trí tuệ, đặt ra các yêu cầu tối thiếu về thủ tục và các biện pháp chế tài mà chính phủ của tất cả các nước Thành viên WTO phải quy định trong pháp luật của nước mình để đảm bảo rằng các quyền sở hữu trí tuệ được bảo hộ hiệu quả. Trong số các nghĩa vụ ở phần này có nghĩa vụ đảm bảo rằng các thủ tục phải công bằng và vô tư, không được phức tạp hoặc tốn kém quá mức cần thiết hoặc không kéo dài quá mức cần thiết. Các thành viên WTO cũng được yêu cầu phải quy định áp dụng các thủ tục và chế tài hình sự đối với các trường hợp cố ý giả mạo nhãn hiệu thương mại hoặc vi phạm bản quyền với quy mô thương mại. Việt Nam đã ban hành quy định pháp luật phù hợp để trừng trị những người cố tình làm giả hoặc sao chụp trái phép các quyền tác giả.
Phần IV của Hiệp định TRIPS quy định về cách thức mà các quyền sở hữu trí tuệ có thể có được sự bảo hộ và duy trì ở các thành viên WTO.
Phần V của Hiệp định TRIPS quy định về việc giải quyết tranh chấp giữa các thành viên WTO. Điều quan trọng cần lưu ý là các quy định của Phần này không tạo ra quyền cho các cá nhân tiến hành khởi kiện hoặc áp dụng các biện pháp xử lý vi phạm mà Hiệp định quy định các quyền của chính phủ này có thể khiếu kiện chính phủ khác về sự phù hợp của các quy định về sở hữu trí tuệ của chính phủ thành viên WTO với quy định của Hiệp định TRIPS.
Phần VI quy định về các thời hạn chuyển đổi và Phần VII quy định về thiết lập các thiết chế cho việc giám sát việc thực thi Hiệp định TRIPS.
Việt Nam có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ cơ bản theo quy định của Hiệp định TRIPS.
(b) Những quyền và nghĩa vụ bổ sung của Việt Nam trong WTO Khi nghiên cứu các quy định của Hiệp định TRIPS, cần chú ý Việt Nam đã cam kết có nghĩa vụ áp dụng đầu đủ các quy định của Hiệp định TRIPS kể từ ngày gia nhập WTO mà không cần có bất kỳ thời gian chuyển đổi nào. Các cơ quan quản lý chuyên ngành của Việt Nam có nghĩa vụ áp dụng các quy định của pháp luật Việt Nam phù hợp với tất cả các quy định liên quan của Hiệp định TRIPS. Việt Nam còn cam kết, trước ngày gia nhập, Việt Nam sẽ ban hành các văn bản quy phạm pháp luật phù hợp yêu cầu. Cơ quan của chính phủ chỉ sử dụng các phần mềm máy tính hợp hợp pháp và không vi phạm quyền tác giả đối với các phần mềm này. Các biện pháp này được áp dụng đối với việc mua và quản lý tất cả các phần mềm do các cơ quan chính phủ sử dụng. Trước ngày gia nhập, Việt Nam cũng phải ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định việc các nhà cung cấp truyền hình cáp chỉ được cung cấp cho khách hàng của họ các chương trình đã có phép đầy đủ.